Tố tụng hình sự bắt đầu khi một đạo luật bị vi phạm và trải qua các giai đoạn bắt giữ, cáo trạng, xử sơ thẩm và phúc thẩm. Ở Mỹ không có một trình tự tố tụng hình sự hoặc dân sự thống nhất. Thay vào đó, hệ thống liên bang có một trình tự tố tụng ở cấp độ quốc gia, và mỗi bang và lãnh thổ có những quy tắc và quy định riêng tác động lên thủ tục tố tụng. Những chuẩn mực và sự tương đồng tồn tại giữa tất cả các thực thể chính quyền này, và ở đây chúng tôi sẽ tập trung trao đổi về các chuẩn mực và tương đồng đó, mặc dù thực tế không có hai bang nào có hệ thống tòa án hoàn toàn giống nhau, và không bang nào có hệ thống tòa án hoàn toàn giống với hệ thống tòa án của chính quyền quốc gia.
BẢN CHẤT VÀ CĂN NGUYÊN CỦA TỘI PHẠM
Một hành động không tự động được coi là tội phạm vì nó gây tổn hại hay sai trái. Một hành động chỉ cấu thành tội phạm thực sự khi hành động đó vi phạm một cách cụ thể một đạo luật hình sự do Quốc hội, một cơ quan lập pháp bang hay một số cơ quan công quyền khác ban hành. Khi đó, tội phạm là một hành vi chống lại bang, mà có thể bị phạt tiền, ngồi tù hoặc tử hình. Tội phạm là sự vi phạm các nghĩa vụ đối với toàn thể cộng đồng và chỉ có thể bị trừng phạt bởi bang. Chế tài phạt tù hay tử hình không thể được đặt ra bởi một tòa án dân sự hay trong một hành động dân sự (mặc dù tiền phạt có thể là hình phạt dân sự hoặc hình sự).
Ở Mỹ, hầu hết tội phạm đều cấu thành từ một hành động sai trái như tấn công nghiêm trọng hay tham ô; một số ít tội phạm cấu thành từ việc không hành động như không dừng lại hay không trợ giúp sau một tai nạn giao thông hoặc không nộp một khoản hoàn thuế thu nhập. Bang coi một số tội phạm là nghiêm trọng như giết người hay phản quốc, và sự nghiêm trọng này được phản ánh ở những chế tài tương ứng như tù chung thân hay án tử hình. Bang coi những tội phạm khác chỉ bị khiển trách phần nào như vi phạm đỗ xe hai lần (double parking) hay quấy rối trật tự, và chịu nộp một ít tiền phạt hay một đêm trong nhà tù địa phương đại loại như một hành động nhắc nhở của chính quyền.
Một số tội phạm, như bắt cóc hay cưỡng hiếp, cấu thành những hành động mà thực sự mọi công dân đều coi là nằm ngoài phạm vi những hành xử có thể chấp nhận được của con người, trong khi những tội phạm khác cấu thành những hành động mà quan điểm về chúng có thể khác nhau. Chẳng hạn, một điều luật của bang Michigan năm 1897 coi việc chửi rủa trước mặt trẻ em là phạm pháp, và một đạo luật của bang Nebraska cấm chơi bingo trong bữa tối ở nhà thờ. Những đạo luật hình sự khác lại hết sức ngớ ngẩn: Tại bang Wisconsin, việc hát trong quán bar là phạm pháp, và ở bang Louisiana, việc xuất hiện trong tình trạng say xỉn tại cuộc họp của một hội văn học là điều bị cấm.
Những tội phạm nghiêm trọng nhất ở Mỹ là những tội nặng / trọng tội (felonies). Tại phần lớn các bang trọng tội là bất kỳ sự phạm tội nào mà hình phạt có thể là tử hình (ở những bang cho phép điều đó) hay tống giam vào nhà đá (một nhà tù liên bang hoặc bang); tất cả những tội khác là tội nhẹ / khinh tội (misdemeanors) hoặc vi cảnh (infractions). Ở những bang khác và theo luật liên bang, trọng tội là một tội mà hình phạt có thể là tử hình hoặc phạt tù từ một năm trở lên. Do vậy, việc định nghĩa trọng tội là khác nhau ở một số bang tùy theo nơi diễn ra hình phạt; ở một số bang và theo chính quyền liên bang, thời hạn của bản án là yếu tố chính. Những ví dụ về trọng tội bao gồm giết người, hãm hiếp bằng vũ lực và cướp có vũ khí.
Tội nhẹ / khinh tội (misdemeanors) được bang coi là những tội ít nghiêm trọng, và hình phạt của chúng thường là giam trong nhà tù của thành phố hay địa hạt trong thời gian dưới một năm. Say rượu nơi công cộng, đánh bạc lặt vặt và sống lang thang là những ví dụ chung về những vi phạm nhỏ. Một số bang còn có phân loại thứ ba về tội phạm là vi cảnh (infractions). Thông thường loại này bao gồm những vi phạm giao thông nhỏ, như vi phạm nơi đỗ xe, và hình phạt thường là nộp ít tiền phạt. Tiền phạt cũng có thể là một phần trong hình phạt dành cho những tội nhẹ / khinh tội và tội nặng / trọng tội.
PHÂN LOẠI TỘI PHẠM
Năm hạng mục rộng phân loại tội phạm bao gồm những loại vi phạm hình sự chủ yếu ở nước Mỹ ngày nay là tội phạm thông thường, tội phạm kinh tế, tội phạm có tổ chức, tội phạm chính trị và tội phạm đồng thuận.
Tội phạm thông thường
Tội phạm tài sản chiếm tỷ trọng lớn trong 31,3 triệu vụ tội phạm thông thường hàng năm ở Mỹ. Tội phạm tài sản được chính phủ phân biệt với tội phạm bạo lực mặc dù hai loại tội phạm này thường có mối quan hệ mật thiết. Chẳng hạn, kẻ trộm đột nhập vào nhà và vô tình chạm mặt chủ nhà có sức kháng cự; tên trộm này có thể làm bị thương người chủ nhà và do vậy sẽ bị kết tội không chỉ là ăn trộm tài sản.
Những tội phạm thông thường ít gặp hơn nhưng đáng sợ hơn là những tội liên quan đến con người. Những tội phạm bạo lực này bao gồm giết người và sát hại có chủ ý, hiếp dâm có bạo lực, cướp và hành hung nghiêm trọng.
Tội phạm kinh tế
Có bốn loại tội phạm kinh tế lớn:
Những tội phạm cá nhân bao gồm hành động phạm tội không dùng bạo lực mà một người bắt người khác phải chịu với hy vọng có được tiền. Những ví dụ bao gồm cố ý viết séc sai, gian trá với thuế thu nhập của mình và gian lận về tiền trợ cấp.
Việc lợi dụng niềm tin xảy ra khi các nhân viên trong doanh nghiệp và chính phủ vi phạm sự trung thực đối với người chủ hay khách hàng của họ và tham gia vào những việc làm như hối lộ thương mại, ăn trộm và biển thủ từ nơi làm việc, và lập sai hồ sơ các tài khoản chi tiêu.
Tội phạm kinh doanh là những tội phạm mà không nằm trong mục tiêu trọng tâm của doanh nghiệp kinh doanh nhưng có liên quan đến (hoặc trợ giúp cho) mục tiêu đó. Quảng cáo sai, vi phạm các luật chống tơ-rớt, và tính sai khấu hao để làm lệch thuế thu nhập công ty đều là tội phạm kinh doanh.
Những trò gian lận là hoạt động tội phạm mà những người lao động trí óc phạm phải dưới hình thức một doanh nghiệp/hoạt động kinh doanh.
Những tội phạm có tổ chức
Tội phạm có tổ chức là do những nhóm người phạm phải và thường được điều hành trên cơ sở một hệ thống thứ bậc nào đó. Nó thể hiện một hành động đang diễn ra gắn chặt với nỗi sợ hãi và tham nhũng. Tội phạm có tổ chức có xu hướng tập trung vào những lĩnh vực cực kỳ cám dỗ như buôn lậu thuốc, đánh bạc, mại dâm và cho vay nặng lãi (cho vay tiền với lãi suất và mức trả nợ gốc rất lớn).
Tội phạm chính trị
Tội phạm chính trị thường cấu thà nh một tội chống lại chính quyền: phản quốc, nổi loạn có vũ trang, ám sát các quan chức xã hội và xúi giục nổi loạn. Tuy nhiên, thuật ngữ này đã được chính phủ coi là bao gồm tội phạm do cá nhân công dân, các nhóm chống đối và chính quyền hay quố c gia nước ngoài phạm phải - chẳng hạn những cuộc nghe trộm (wiretaps) bất hợp pháp do chính quyền của các nhóm chống đối về chính trị tiến hành hay việc quân đội từ chối điều tra những vụ quấy rối tình dục.
Tội phạm đồng thuận
Cái gọi là tội phạm không có nạn nhân, như mại dâm, đánh bạc, sử dụng ma tuý, và những hà nh vi tính dục bất hợp pháp giữa những người trưởng thành đồng thuận, được gọi là đồng thuận (consensual) vì cả kẻ gây ra lẫn đối tượng đều mong muốn hành động bị cấm đoán đó.
NHỮNG YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM
Mọi tội phạm đều có một vài yếu tố cấu thành khác biệt, và không thể bị kết tội trừ phi bang có khả năng trình bày tại tòa sự tồn tại của những yếu tố thiết yếu này. Mặc dù thủ tục tố tụng ở phòng xử án có thể không tập trung một cách riêng rẽ và phân biệt vào mỗi một yếu tố cấu thành này nhưng chúng ít nhất cũng ẩn chứa xuyên suốt toàn bộ quá trình kết tội chính xác ai đó đã phạm một tội hình sự.
Luật định nghĩa tội phạm và hình phạt
Nếu một hành động được coi là bị cấm hoặc được luật pháp yêu cầu thì một cơ quan chức năng được thành lập chính đáng (thường là bởi Quốc hội hoặc cơ quan lập pháp bang) phải giải thích sự việc một cách chính xác để toàn thể công dân có thể biết trước hành vi nào là bị cấm hay được yêu cầu. Các nhà làm luật cũng phải công bố những hình phạt sẽ được áp dụng đối với cá nhân tham gia vào hành vi gây phương hại.
Có một vài hệ quả của nguyên tắc chung này. Một hệ quả là Hiến pháp Mỹ cấm các luật hình sự có giá trị hồi tố (ex post facto), có nghĩa là các luật tuyên bố một số hành vi là phạm pháp sau khi hành vi đó đã diễn ra. Cũng như vậy, bang có thể không thông qua lệnh tước quyền công dân và tịch thu tài sản, là những đạo luật chọn ra một người hay một nhóm người riêng biệt và tuyên bố một điều gì đó là phạm tội đối với họ nhưng lại là hợp pháp với tất cả những người khác. Một hệ quả cuối cùng là luật định nghĩa tội phạm cần phải chính xác để người bình thường cũng có thể xác định trước hành vi nào là bị cấm hay được yêu cầu.
Actus Reus (khách quan của tội phạm)
“Actus reus” là một cụm từ tiếng Latinh có nghĩa là hành động phạm tội mà bị cáo phạm phải dẫn đến việc khởi tố theo pháp luật. Actus reus là yếu tố vật chất của tội phạm. Yếu tố này có thể là việc phạm phải một hành động bị cấm (chẳng hạn, sự đe dọa và hành hung), hoặc có thể là không thực hiện hành động được yêu cầu (chẳng hạn, một người từ chối không dừng lại và giúp đỡ nạn nhân tai nạn xe máy).
Mens Rea (chủ quan của tội phạm)
“Mens rea” (một thuật ngữ Latinh) chỉ yếu tố tinh thần căn bản của tội phạm. Hệ thống pháp luật Mỹ luôn có sự phân biệt giữa sự phương hại bị gây ra một cách có chủ ý và sự phương hại bị gây ra do sơ suất hay ngẫu nhiên. Do đó, nếu một người lấy đi cuộc sống của một người khác thì bang không phải lúc nào cũng coi đó là tội giết người. Nếu việc giết người do một cá nhân lành mạnh thực hiện với dã tâm có suy tính trước thì đó có thể được coi là “giết người ở mức độ cấp một”. Nhưng nếu việc giết người xảy ra do hăng máu cãi lộn ở quán rượu thì có thể được gọi là “giết người ở mức độ cấp hai” và chịu hình phạt thấp hơn. Việc lái xe cẩu thả trên đường cao tốc gây ra cái chết của người khác sẽ được coi là “giết người do khinh suất” - một sự sai trái, chắc chắn là như vậy, nhưng không nghiêm trọng bằng tội giết người có chủ ý trong con mắt của bang.
Thiệt hại hay hậu quả
Một tội phạm bao gồm một thiệt hại hay sai trái cụ thể mà người này phạm phải đối với người khác. Tội phạm có thể làm phương hại toàn thể xã hội như bán những bí mật quân sự cho một chính quyền nước ngoài, hoặc sự tổn hại có thể giáng xuống một người và, do bản chất của nó, bị coi là xâm phạm toàn bộ xã hội. Bản chất của thiệt hại, giống như chủ quan của tội phạm (mens rea), thường xác định bản chất của tội phạm. Ví dụ, hai tài xế cắt mặt nhau trên đường. Cuối cùng cả hai đều dừng xe và nhảy ra ngoài đánh nhau. Giả sử một trong số họ đánh người kia trọng thương đến chết. Tội phạm có thể là giết người (ở cấp độ nào đó). Nếu người bị đánh không chết nhưng bị chấn thương cơ thể nặng thì tội phạm là hành hung nghiêm trọng (aggravated assault). Nếu sự tổn hại là nhỏ thì có thể buộc tội là hành hung không nghiêm trọng (simple assault). Do bản chất của sự tổn hại thường xác định sự vi phạm nên bản chất của sự tổn hại thường được khẳng định là yếu tố pháp lý then chốt của tội phạm.
Một số hành động có thể là tội phạm ngay cả khi trên thực tế không có sự tổn hại nào. Hầu hết tội phạm có âm mưu hình sự đều rơi vào loại này. Chẳng hạn, nếu một vài người lập kế hoạch ám sát một thẩm phán hay hối lộ những thành viên bồi thẩm đoàn để cố gắng làm cho kẻ phạm tội không bị kết án thì tội phạm sẽ là âm mưu cản trở việc xét xử. Đây cũng có thể là tội phạm ngay cả khi thẩm phán không hề bị phương hại và các thành viên bồi thẩm đoàn không nhận được đồng nào. Tất cả những điều được yêu cầu ở đây là tội phạm phải được lập kế hoạch và có chủ đích, và một số hành động cụ thể, công khai phải do một trong những kẻ chủ mưu thực hiện để thúc đẩy kế hoạch của chúng (như việc mua vũ khí hay sở hữu bản đồ con đường mà thẩm phán đi từ nhà đến phòng xử án).
Quan hệ nhân quả giữa hành động và thiệt hại
Trước khi có thể kết án một tội phạm hình sự, bang phải chứng tỏ rằng bị cáo, khi hành động theo chuỗi tự nhiên và liên tục, đã tạo ra tình huống gây phương hại. Thông thường, việc chứng minh mối quan hệ nhân quả không phải là khó khăn. Nếu “Bill” đâm “John” bằng một con dao và gây thương tích nhẹ thì rõ ràng là Bill đã phạm tội hành hung bằng vũ khí có thể gây chết người. Nhưng nếu John không được chăm sóc thuốc men đầy đủ cho vết thương khiến vết thương bị nhiễm trùng và làm anh ta chết thì chuyện gì sẽ xảy ra? Hoặc nếu sau khi bị đâm, John lỡ va vào một người thứ ba khác và khiến cô ta bị thương thì sao? Liệu Bill có bị buộc tội vì điều đó không?
Giải pháp cho những câu hỏi như vậy thường rất khó đối với các thẩm phán và bồi thẩm đoàn. Luật pháp yêu cầu phải tính đến mọi tình huống. Bị cáo chỉ bị kết tội khi bang có thể chứng tỏ rằng hành động của bị cáo là nguyên nhân trực tiếp, tức thì hay quyết định đến sự phương hại của nạn nhân.