Chương 8: Việc thực thi và tác động của các chính sách tòa án (Phần 2)

ẢNH HƯỞNG CỦA NGÀNH HÀNH PHÁP ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH THỰC THI

Đôi khi, tổng thống có thể được triệu tập trực tiếp để thực thi một phán quyết của tòa án. Một ví dụ là vụ Hoa Kỳ kiện Nixon (1974). Một cuộc điều tra do ủy ban của Thượng viện tiến hành về chi tiết vụ đột nhập vào trụ sở của Đảng Dân chủ tại Khách sạn Watergate tại Washington, D.C., đã viện dẫn trực tiếp tới các quan chức cao cấp của chính phủ làm việc gần gũi với tổng thống. Cuộc điều tra cũng đã phát hiện thấy rằng Tổng thống Richard Nixon đã cho lắp đặt một hệ thống ghi âm tự động trong Văn phòng tổng thống. Leon Jaworski, người đã được chỉ định làm ủy viên công tố đặc biệt để điều tra vụ Watergate, đã yêu cầu phải đưa ra trước tòa một số cuốn băng mà ông cảm thấy có thể là bằng chứng cần thiết cho việc khởi tố các quan chức cao cấp. Nixon từ chối giao các cuộn băng này dựa trên cơ sở đặc quyền hành pháp và yêu cầu bảo mật đối với các cuộc thảo luận dẫn tới những quyết định của tổng thống. Phán quyết của Tòa án tối cao đã chỉ thị cho Tổng thống phải giao những cuốn băng đó cho Thẩm phán John J. Sirica, người đang điều khiển các phiên tòa xét xử các quan chức chính phủ. Nixon đã tuân thủ chỉ thị của Tòa án tối cao và như vậy đã thực thi một phán quyết mà nhanh chóng dẫn đến sự sụp đổ của ông. Trong vòng hai tuần, ông đã từ chức tổng thống, vào tháng Tám 1974.

Ngay cả khi không trực tiếp tham gia vào việc thực thi một chính sách của tòa án, tổng thống cũng có thể ảnh hưởng tới tác động của nó. Do vị thế và sự nổi bật của chức vụ này, một tổng thống có thể khuyến khích sự ủng hộ hoặc sự chống đối một chính sách mới của tòa án chỉ đơn giản bằng lời nói và hành động của mình.

Tổng thống có thể đề xuất một đạo luật trực tiếp tác động tới các tòa án. Một ví dụ là Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã không thành công trong việc thúc đẩy Quốc hội mở rộng quy mô của Tòa án tối cao để ông có thể đưa vào đó những thẩm phán ủng hộ chương trình lập pháp của chính quyền của ông.

Quyền bổ nhiệm thẩm phán cũng mang lại cho tổng thống một cơ hội để ảnh hưởng tới các chính sách của tòa án liên bang, do tổng thống có thể chỉ định tất cả các thẩm phán liên bang, với sự tư vấn và chấp thuận của Thượng viện.

Tổng thống có thể ảnh hưởng tới quá trình ra quyết sách của tòa án thông qua các hoạt động của Bộ Tư pháp, một bộ phận của ngành hành pháp. Viên chưởng lý và các nhân viên dưới quyền có thể nhấn mạnh vào những vấn đề cụ thể theo các mục tiêu chính sách chung của tổng thống. Tuy nhiên, mặt trái của việc này là Bộ Tư pháp có thể tùy tiện giảm bớt tầm quan trọng của một số chính sách cụ thể bằng cách không nỗ lực theo đuổi chúng trước tòa.

Một quan chức chính quyền khác có thể ảnh hưởng tới quá trình ra quyết sách của tòa án là đại diện của chính phủ tại Tòa án tối cao. Về mặt lịch sử, quan chức này được xem như có trách nhiệm kép đối với cả ngành hành pháp và tư pháp. Do mối quan hệ gần gũi giữa quan chức này với Tòa án tối cao, nên đôi khi người này còn được nhắc tới như là “thẩm phán thứ mười”. Đại diện của chính phủ tại Tòa án tối cao cũng được coi như một cố vấn về pháp lý, người chuyên đưa ra những ý kiến tư vấn cho Tòa án tối cao về ý nghĩa của các quy chế liên bang và của Hiến pháp. Quan chức này cũng quyết định những vấn đề gì trong các vụ kiện mà chính phủ liên bang là một bên có thể được kháng án lên Tòa án tối cao. Hơn nữa, ông / bà ta có thể khởi kiện dưới danh nghĩa “luật sư cố vấn của tòa án” để hối thúc tòa án cho phép hoặc từ chối đơn đề nghị tòa án cấp trên xem xét lại một vụ kiện của một nguyên đơn khác, hoặc ủng hộ hay phản đối một chính sách cụ thể được đưa ra để Tòa án tối cao thông qua.

Có rất nhiều quyết định của tòa án trên thực tế được thực thi bởi nhiều ngành, cơ quan, văn phòng và các ủy ban hành pháp. Ví dụ, phán quyết của Tòa án tối cao trong vụ Frontiero kiện Richardson (1973) đã đòi hỏi Không quân Hoa Kỳ đóng vai trò chủ đạo trong việc thực thi. Vụ Frontiero đã đặt câu hỏi đối với quy định của Quốc hội về việc cấp các khoản phúc lợi cho những nhân viên nam đã kết hôn trong lực lượng không quân, song lại không cung cấp những phúc lợi tương tự cho nhân viên nữ đã kết hôn phục vụ trong lực lượng nà y. Trung úy Sharon Frontiero đã khởi kiện chính sách này dựa trên lý lẽ rằng chính sách này tạo ra sự phân biệt đối xử về giới. Một tòa án hạt của liên bang ở Alabama đã đưa ra một phán quyết ủng hộ chính sách của Không quân Hoa Kỳ. Trung úy Frontiero đã đệ đơn phúc thẩm lên Tòa án tối cao, nơi đã bác bỏ phán quyết của tòa cấp dưới và yêu cầu Không quân Hoa Kỳ phải đưa ra một chính sách mới.

NHỮNG ĐỐI TƯỢNG THI HÀNH KHÁC

Việc thực thi các chính sách của tòa án thường được tiến hành bởi các quan chức bang cũng như liên bang. Rất nhiều phán quyết của tòa án về trình tự đúng đắn của các vụ xét xử hình sự do Tòa án tối cao đưa ra, ví dụ như phán quyết trong các vụ Gideon kiện Wainwright và Miranda kiện Arizona (1966), đã được thực thi bởi các thẩm phán tòa án bang và các quan chức khác của bang. Một ví dụ là các nhân viên cảnh sát địa phương và bang đóng vai trò chủ yếu trong việc thực thi quy định Miranda, quy định này yêu cầu những người bị tình nghi là tội phạm phải được thông báo về các quyền của họ khi bị bắt. Phán quyết Gideon quy định các bị cáo trong những vụ án nghiêm trọng không có đủ tiền thuê luật sư sẽ được phép có luật sư biện hộ với phí tổn do bang trả được thi hành bởi các luật sư bào chữa của chính quyền, các hiệp hội luật sư địa phương và cá nhân các luật sư do tòa án chỉ định.

Các nhà lập pháp và hành pháp của bang cũng thường được lôi kéo vào quy trình thực thi. Một thẩm phán, người quyết định rằng đã có một sai phạm xảy ra, có thể lựa chọn giữa rất nhiều phương án khắc phục sai phạm. Trong số những phương án phổ biến có các biện pháp khắc phục về thủ tục, các tiêu chuẩn thực hiện, và các hành động bồi thường cụ thể. Các biện pháp khắc phục về thủ tục cung cấp những ủy ban tư vấn, các tổ chức với sự tham gia của công dân, các chương trình giáo dục, các ủy ban đánh giá, các quy trình giải quyết tranh chấp và những người có thẩm quyền và năng lực cụ thể để giải quyết một vấn đề và tìm ra giải pháp. Các biện pháp khắc phục không nêu cụ thể một hình thức hoạt động nhất định. Các tiêu chuẩn thực hiện đòi hỏi những biện pháp khắc phục cụ thể - ví dụ, một số lượng nhất định các tổ chức phát triển nhà ở hoặc các trường học, hay một số lượng nhất định nhân viên làm việc tại trại giam hoặc các cơ sở điều trị tâm thần. Các phương tiện cụ thể để đạt được những mục tiêu này hoàn toàn do các quan chức được nêu tên trong vụ kiện quyết định. Những ví dụ về các hành động khắc phục cụ thể là việc đưa học sinh tới trường bằng ôtô buýt, trộn lẫn các khu vực đăng ký học sinh, và những thay đổi về quy mô và điều kiện sinh hoạt trong các nhà giam hoặc phòng bệnh viện. Hình thức khắc phục này không dành cho bị đơn sự linh hoạt liên quan tới biện pháp khắc phục cụ thể hoặc phương tiện để đạt được điều đó.

Việc thực thi những sắc lệnh khắc phục này thường được giao, ít nhất là một phần, cho các cơ quan lập pháp bang. Một sắc lệnh yêu cầu số lượng phòng cụ thể trong trại giam hoặc số lượng nhân viên canh gác cụ thể trong hệ thống nhà tù có thể đòi hỏi các khoản chi tiêu mới của bang mà cơ quan lập pháp phải tài trợ. Tương tự, một sắc lệnh yêu cầu xây dựng thêm nhiều cơ sở y tế điều trị tâm thần hiện đại hơn hoặc cung cấp nhiều trang thiết bị hiện đại hơn cũng đồng nghĩa với việc gia tăng chi tiêu của bang. Các thống đốc cũng có thể liên quan tới việc thực thi những sắc lệnh khắc phục này bởi vì họ thường tham gia rất nhiều vào quá trình lập ngân sách bang. Hơn nữa, họ có thể ký thông qua hoặc phủ quyết các đạo luật.

Đôi khi các thẩm phán chỉ định những cá nhân cụ thể để hỗ trợ việc thực thi các sắc lệnh khắc phục. Những người có chức trách đặc biệt này thường được trao cho một số thẩm quyền ra quyết định. Các nhà quản lý do tòa chỉ định cũng được sử dụng trong một số trường hợp, nhưng họ không đảm nhiệm hoàn toàn trách nhiệm ra quyết định của thẩm phán. Trên thực tế, nhà quản lý là người thu thập thông tin, báo cáo về diễn tiến của bị đơn trong việc tuân thủ sắc lệnh khắc phục. Khi các sắc lệnh không được tuân thủ hoặc khi các rào cản dưới dạng này hay dạng khác cản trở tiến độ của việc đưa ra một biện pháp khắc phục, một thẩm phán có thể chỉ định một người làm người quản lý đại diện và trao quyền cho ông / bà ta để gạt bỏ những rào cản về mặt tổ chức thông thường nhằm khiến cho công việc được tiến hành trôi chảy.

Có một nhóm các cá nhân tham gia rất sâu vào việc thực hiện các chính sách của tòa án: hàng nghìn nam giới và phụ nữ là ủy viên của các hội đồng trường học trên khắp đất nước. Có hai lĩnh vực chính sách lớn nổi bật lên do đã dẫn các ủy viên hội đồng trường học tới một cuộc tranh cãi tương đối gay gắt khi họ phải đối mặt với nhiệm vụ cố gắng thực thi chính sách của Tòa án tối cao.

Thứ nhất, vào năm 1954, khi Tòa án tối cao phán quyết rằng không được phép phân biệt đối xử tại các trường học công, các hội đồng trường học và các nhà quản lý trường học, cùng với các thẩm phán hạt của liên bang, đã phải chịu đựng gánh nặng của việc thực thi quyết định đó. Vai trò của họ trong quá trình này đã ảnh hưởng tới đời sống của hàng triệu học sinh, phụ huynh học sinh và các công dân trên khắp nước Mỹ.

Lĩnh vực chính sách thứ hai liên quan tới các hội đồng trường học là các chính sách của Tòa án tối cao về tôn giáo trong trường học công. Trong vụ Engel kiện Vitale (1962), Tòa án tối cao đã phán quyết rằng yêu cầu của New York về việc học sinh các trường học công hàng ngày phải đọc một bài cầu nguyện do bang soạn thảo là không hợp hiến. Một số phân khu trường học đã phản ứng lại phán quyết này bằng việc yêu cầu đọc một đoạn thơ trong Kinh thánh hoặc Lời cầu nguyện Chúa trời thay cho việc đọc bài cầu nguyện nói trên. Lý lẽ họ đưa ra là do các bang không viết ra Lời cầu nguyện Chúa trời hoặc Kinh thánh nên họ không vi phạm phán quyết của Tòa án tối cao. Một năm sau, Tòa án tối cao đã bác bỏ những thông lệ này, chỉ ra rằng sự vi phạm hiến pháp nằm trong việc ủng hộ các hoạt động tôn giáo và rằng phán quyết của Tòa không phụ thuộc vào việc các bang có viết ra lời cầu nguyện hay không.

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH SÁCH CỦA TÒA ÁN

Tầm quan trọng bậc nhất của các phán quyết của Tòa án tối cao phụ thuộc chủ yếu vào tác động của chúng đối với toàn thể xã hội Mỹ. Một số chính sách có ảnh hưởng quan trọng thuộc về những lĩnh vực bình đẳng chủng tộc, quy trình đúng trong tố tụng hình sự, và nạo phá thai.

Bình đẳng chủng tộc

Rất nhiều người coi phán quyết của Tòa án tối cao trong vụ Brown kiện ủy ban giáo dục là động lực thúc đẩy quá trình hướ ng tới bình đẳng chủng tộc ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Quốc hội và nhánh hành pháp cũng tham gia vào việc bảo đảm thực thi chính sách xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc của phán quyết này. Từ đó, các tòa án đã bắt đầu theo đuổi một chính sách quốc gia về bình đẳng chủng tộc với phán quyết của vụ Brown.

Lúc đầu, các quyết định của tòa án thường rất mập mờ, dẫn tới việc lẩn tránh chính sách mới. Tuy nhiên, các thẩm phán Tòa án tối cao và rất nhiều thẩm phán tòa án cấp dưới của liên bang đã rất kiên trì và giữ cho chính sách bình đẳng chủng tộc trở thành một vấn đề trong chương trình nghị sự quốc gia. Sự kiên trì của họ đã được đền bù bằng việc thông qua Đạo luật nhân quyền năm 1964, 10 năm sau khi có phán quyết Brown. Hành động này, được sự ủng hộ mạnh mẽ của các tổng thống John F. Kennedy (1961-1963) và Lyndon B. Johnson (1963-1969), đã ghi nhận trực tiếp vai trò của Quốc hội và tổng thống như những người ủng hộ chính sách bình đẳng chủng tộc ở nước Mỹ.

Một khía cạnh khác thể hiện tầm quan trọng của các phán quyết tòa án liên bang trong quá trình hoạch định chính sách được minh họa bởi phán quyết Brown và các vụ kiện tiếp theo sau phán quyết này. Mặc dù các tòa án đã phải đơn độc trong cuộc đấu tranh đòi bình đẳng chủng tộc trong vài năm, song những phán quyết của họ không phải không được chú ý. Charles A. Johnson và Bradley C. Canon đã lập luận trong cuốn Các chính sách của tòa án: Việc thực thi và tác động (Judicial Policies: Implementation and Impact) rằng phán quyết Brown “là một phán quyết rất nổi bật của Tòa án tối cao, một nỗ lực của tòa án nhằm tạo ra một trong những cải cách xã hội vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Và chắc chắn rằng, trong những năm tiếp theo, những người Mỹ gố c Phi cùng những người ủng hộ họ sẽ tạo ra áp lực đáng kể đối với các cơ quan chính quyền khác để xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc trong các trường học. Trên thực tế, những áp lực này đã nhanh chóng vượt ra khỏi phạm vi các trường học để đòi hỏi sự hòa nhập trong tất cả các khía cạnh của đời sống của người dân Mỹ.”

Tin tức Mỹ

Đăng ký tư vấn

Anh/Chị có bất kỳ thắc mắc về chương trình đầu tư định cư các nước, vui lòng đăng ký vào form bên dưới hoặc liên hệ với công ty USIS, chúng tôi sẵn sàng tiếp nhận và giải đáp tất cả các câu hỏi của Anh/Chị.

Xin vui lòng liên hệ [email protected] hoặc điện thoại:

Việt Nam: 0909 337 657

Vui lòng để lại thông tin của bạn dưới đây