Danh sách này sẽ cho bạn thấy được bề dày lịch sử của Bồ Đào Nha – và những mốc lịch sử làm nên nhà nước Bồ Đào Nha hiện đại – qua những chi tiết nhỏ để bạn dễ dàng tóm lược.
1. Người La Mã khởi đầu chinh phục bán đảo Iberia năm 218 TCN
Trận chiến giữa tướng Scipio Africanus và Hannibal, khoảng 1616-1618. Hoạ sĩ: Cesari, Bernardino (1565-1621). Nguồn: Heritage Images/Getty Images / Getty Images
Khi người La Mã chiến tranh với người Carthage trong Chiến tranh Punic lần hai, bán đảo Iberia trở thành một vùng tranh chấp giữa hai phe, đều được hỗ trợ bởi người địa phương. Sau năm 211 TCN, vị tướng tài ba Scipio Africanus đã đẩy lui người Carthage ra khỏi bán đảo vào năm 206 TCN và khởi đầu sự cai trị của người La Mã nhiều thế kỷ. Lực lượng kháng chiến vẫn còn tiếp diễn tại miền Trung Bồ Đào Nha cho đến khi lực lượng địa phương bị đánh bại khoảng năm 140 TCN.
2. “Người man rợ” xâm lăng vào năm 409 CN.
Chân dung Euric (~440-484), vua người Visigoth. Nguồn: Getty Images / Getty Images
Với việc cai trị Tây Ban Nha trở nên rối ren do nội chiến, những tộc người German là Sueve, Vandal, và Alan tiến hành xâm lược. Theo sau đó là người Visigoth, xâm lược đầu tiên, thay mặt cho hoàng đế, để bành trướng quyền cai trị vào năm 416, và thế kỷ sau đó chinh phục người Sueve; họ bị dồn vào khu vực Galicia, một khu vực tương đương với miền Bắc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
3. Người Visigoth chinh phục người Sueve năm 585
Vua Liuvigild của Visigoth. Nguồn: Wikimedia Commons
Vương quốc của người Sueve được chinh phục hoàn toàn vào năm 585 CN bởi người Visigoth, cho họ toàn quyền thống trị bán đảo Iberia và vùng đất ngày nay là Bồ Đào Nha.
4. Người Hồi giáo xâm lăng Tây Ban Nha vào thế kỷ 711
Trận chiến Guadalete – tranh vẽ theo trí tưởng tượng 1200 năm sau bởi hoạ sĩ Tây Ban Nha Martinez Cubells (1845-1914), mô tả sự rút lui của người Goth trước đoàn kỵ binh người Berber của chỉ huy Tarik.
Một lực lượng Hồi giáo gồm người Berber và Ả Rập tấn công bán đảo Iberia từ Bắc Phi, tận dụng thời cơ vào thời điểm vương quốc Visigoth gần như sụp đổ (lý do đang được các sử gia tranh cãi, cái lý do “sụp đổ vì lạc hậu” hiện tại đã được bác bỏ); trong vài năm, miền Trung và Nam bán đảo thuộc về người Hồi giáo, miền Bắc thuộc sự kiểm soát của người Thiên chúa giáo. Một nền văn hoá rực rỡ nổi lên trong vùng đất mới vốn được định cư bởi nhiều di dân.
5. Khai sinh vùng đất Portucalae thế kỷ 9
Quốc huy vương quốc Leon. Nguồn: Wikimedia Commons
Những vị vua của vương quốc Leo tại miền Bắc bán đảo Iberia đang tham chiến trong cuộc Thánh chiến để tái chiếm bán đảo – hay còn gọi là Reconquista, đã hồi phục lại các khu định cư. Một trong số đó là một cảng sông bên bờ Douro, trở thành Portucalae, hoặc còn gọi là Bồ Đào Nha. Chiến tranh diễn ra nhưng thuộc về người Thiên chúa giáo từ năm 868. Vào đầu thế kỷ 10, tên gọi này được dùng để xác định một vùng đất lớn, cai trị bởi những Bá tước của Bồ Đào Nha, chư hầu của Những vị vua của Leon. Những bá tước này được hưởng quyền tự trị cao và tách biệt văn hoá.
6. Afonso Henrique trở thành Quốc vương Bồ Đào Nha (1128 – 1179)
Vua Alfonso Đệ nhất của Bồ Đào Nha. Nguồn: Getty Images / Getty Images
Khi Bá tước Henrique xứ Portucalae qua đời, vợ ngài bà Dona Teresa, con gái của vua xứ Leo, xưng Nữ hoàng. Khi bà kết hôn với một quý tộc người Galicia, những quý tộc của Portucalae nổi dậy, lo sợ bị chịu cai trị bởi xứ Galicia. Họ tụ tập lực lượng với con trai của Teresa, Afonso Henrique, người đã chiến thắng một “trận chiến” (có thể chỉ là một trận đấu) vào năm 1128 và trục xuất mẹ của ông. Vào năm 1140, ông tự xưng vua của Bồ Đào Nha, chống lưng bởi vua xứ Leon bấy giờ đã coi ông như Hoàng đế, do đó tránh được xung đột. Trong suốt từ năm 1143 – 1179, vua Afonso xung đột với nhà thờ, và vào năm 1179, Đức giáo hoàng cũng gọi Afonso là vua, công nhận nền độc lập của ông ta khỏi xứ Leo và quyền lên ngôi vua.
7. Giành giật quyền thống trị hoàng tộc 1211 - 1223
Vua Afonso Đệ nhị. Nguồn: Wikimedia Commons
Vun Afonso Đệ nhị, con trai của vị vua đầu tiên của Bồ Đào Nha, gặp khó khăn trong việc bành trướng và củng cố quyền lực của ông đối với giới quý tộc Bồ Đào Nha đã quen với quyền tự trị. Trong thời của ông, ông đã gây một cuộc nội chiến với những quý tộc đó, với Giáo hoàng cùng can thiệp để hỗ trợ ông. Tuy nhiên, vua Afonso đã ban hành những bộ luật đầu tiên gây ảnh hưởng đến cả vùng, một trong số đó cấm người dân dâng đất cho nhà thờ, khiến cho ông bị khai trừ khỏi nhà thờ.
8. Thắng lợi và sự cai trị của vua Afonso Đệ tam (1245 – 1279)
Vua Alfonso Đệ tam của Bồ Đào Nha, trong một bức tiểu hoạ thế kỷ 16. Nguồn: Wikimedia Commons
Khi giới quý tộc giành lại quyền lực từ triều đình dưới sự cai trị yếu kém của vua Sancho Đệ nhị, Giáo hoàng lật đổ Sancho, để nhường chỗ cho người em là vua Afonso Đệ tam. Ông về Bồ Đào Nha từ nhà ông tại Pháp và chiến thắng một cuộc nội chiến kéo dài 2 năm giành ngôi vua. Afonso thành lập Hội đồng Cortes đầu tiên – quốc hội của vương quốc, và dẫn đến một thời kỳ tương đối hoà bình. Quân đội Bồ Đào Nha của ông cũng giành thắng lợi trong cuộc chiến Reconquista, chiếm giữ vùng Algarve và thiết lập biên giới quốc gia.
9. Vua Dom Dinis trị vì (1279 – 1325)
Vua Denis của Bồ Đào Nha, trong một bức tiểu hoạ thế kỷ 16
Biệt danh là “nông dân”, Dinis thường được tôn kính trong triều đình Burgundy, vì ông đã sáng lập nên đội hải quân hoàng gia, thành lập trường đại học đầu tiên ở Lisbon, khuyến khích văn hoá, lập nên một trong những trung tâm bảo hiểm đầu tiên cho thương gia và mở rộng giao thương. Tuy nhiên, căng thẳng dâng cao giữa những quý tộc của nhà vua, và ông thất trận trước con trai ông trong trận chiến Santarém, người mà giành lấy được ngai vàng, trở thành vua Afonso Đệ tứ.
10. Inês de Castro bị hạ sát và cuộc khởi nghĩa của Pedro (1355 – 1357)
Trong khi vua Bồ Đào Nha Afonso Đệ tứ cố tranh bị lôi vào những cuộc chiến đẫm máu giành người kế vị của vùng Castilla, một vài người xứ ấy thỉnh cầu hoàng tử Bồ Đào Nha Pedro đến giành ngai vàng. Phản ứng của vua Afonso đối với việc một người Castilla gây ảnh hưởng lên tình nhân của Pedro, Inês de Castro, là giết cô ta. Hoàng tử Pedro nổi dậy trong cơn giận dữ đối với cha ông và chiến tranh nổ ra. Kết quả là Pedro chiếm được ngôi báu vào năm 1357. Chuyện tình này đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến văn hoá Bồ Đào Nha.
11. Cuộc chiến chống lại Castilla, khởi đầu của triều đại Avis (1383 – 1385)
Tượng đồng tưởng nhớ đến vua Joao Đệ nhất tại Lisboa, Bồ Đào nha.
Khi vua Fernando băng hà vào năm 1383, con gái ông Beatriz trở thành nữ hoàng. Điều này cực kỳ mất lòng dân, bởi vì bà đã kết hôn với vua Juan Đệ nhất xứ Castilla, dẫn đến việc nhân dân nổi dậy do lo sợ sự cai trị của người Castilla. Những quý tộc và thương gia hậu thuẫn một cuộc ám sát, dẫn đến một cuộc nổi dậy để hỗ trợ đứa con hoang Joao của cố nhà vua Pedro. Ông ta đánh bại hai cuộc xâm lăn của người Castilla với sự trợ giúp của nước Anh và có được sự chống lưng từ Hội đồng Cortes, vốn cũng cho rằng sự cai trị của Beatriz là không hợp lệ. Từ đó ông trở thành Quốc vương Joao Đệ nhất vào năm 1385 và ký kết trở thành đồng minh vĩnh viễn với Anh quốc vốn vẫn còn tồn tại đến ngày nay, và thành lập một chế độ quân chủ mới.
12. Chiến tranh kế vị của xứ Castilla (1475 – 1479)
Vị anh hùng Duarte de Almeida trong trận chiến Toro (1476), kể cả khi đôi tay của ông đã bị chặt đứt.
Người Bồ Đào Nha tham chiến vào năm 1475 để hỗ trợ việc chiếm lấy ngôi báu Castile của người cháu gái Joanna của vua Bồ Đào Nha Afonso Đệ ngũ, khỏi đối thủ là Isabella, vợ của vua Ferdinand xứ Aragon. Vua Afonso một phần hỗ trợ gia đình mình, một phần cố gắng ngăn chặn việc thống nhất xứ Aragon và Castile, sự kiện mà nhà vua lo sợ sẽ thâu tóm Bồ Đào Nha. Vua Afonso bị đánh bại tại trận chiến Toro vào năm 1476 và không thể yêu cầu trợ giúp từ Tây Ban Nha. Joanna từ bỏ ngôi báu vào năm 1479 trong Hiệp ước Alcáçovas.
13. Bồ Đào Nha mở rộng thành một đế chế vào thế kỷ 15 – 16
Hoàng tử Bồ Đào Nha Henry, hay còn gọi là Henry Hoa tiêu. Nguồn: Getty Images / Getty Images
Trong khi những nỗ lực bành trướng tại Bắc Phi gặp ít thành công, những thuỷ thủ Bồ Đào Nha mở rộng biên giới và tạo nên một siêu cường toàn cầu. Điều này một phần là do hoạch định trực tiếp của hoàng gia, do là những chuyến hành trình quân đội biến hoà thành những chuyến thám hiểm; Hoàng tử Henry “Hoa tiêu” có lẽ là người tiên phong vĩ đại nhất, lập nên một trường học dành cho thuỷ thủ và khuyết khích những chuyến đi quốc tế để khám phá châu báu, truyền bá đạo Chúa và thoả mãn tính tò mò. Đế quốc bao gồm những trạm giao thương dọc theo bờ Đông châu Phi và Ấn Độ/châu Á – nơi mà những thương gia Bồ Đào Nha cạnh tranh với thương gia Hồi giáo – và chinh phục và định cư tại Brazil. Trung tâm giao thương tại châu Á của Bồ Đào Nha, thành phố Goa, trở thành “đô thị thứ hai” của đế quốc.
14. Kỷ nguyên Manueline (1495 – 1521)
Vua Manuel “Phước lộc”.
Lên ngôi vua vào năm 1495, vua Manuel Đệ nhất (còn được biết đến là “Phước lộc”) hoà giải triều đình và giới quý tộc, vốn đang trở nên xa cách, thực hiện nhiều cuộc cải cách toàn quốc và hiện đại hoá nền hành chính, bao gồm, vào năm 1521, việc sửa lại một loại các điều luật vốn là nền tảng hệ thống luật pháp Bồ Đào Nha đến thế kỷ 19. Vào năm 1496, vua Manuel trục xuất tất cả người Do Thái khỏi vương quốc và ra lệnh rửa tội mọi đứa trẻ Do Thái. Văn hoá Bồ Đào Nha trở nên rực rỡ dưới thời Manueline.
15. “Thảm hoạ Alcácer – Quibir” (1578)
Trận chiến Alcácer Quibir, năm 1578. Nguồn: Wikimedia Commons
Khi ở đang ở đỉnh cao và kiểm soát cả đất nước, vua Sebastiáo quyết định gây chiến với người Hồi giáo và thực hiện các cuộc thập tự chinh tại Bắc Phi. Với ý định lập nên một đế chế Thiên chúa giáo, ông ta và 17.000 quân đổ bộ lên thành phố Tangier vào năm 1578 và tiến vào thị trấn Alcácer-Quibir, nơi vua Bồ Đào Nha hạ sát nhiều người. Một nửa lực lượng của vua bị tiêu diệt, kể cả ông, và quyền kế vị truyền lại cho một Hồng y không con nối dõi.
16. Tây Ban Nha sáp nhập Bồ Đào Nha/Khởi đầu sự chiếm đóng của Tây Ban Nha (1580)
Chân dung vua Phillip Đệ nhị (1527 – 1598) trên lưng ngựa, năm 1628. Hoạ sĩ: Rubens, Pieter Pual (1577 – 1640). Nguồn: Heritage Images/Getty Images
Thảm hoạ “Alcácer – Quibir” và cái chết của vua Sebastiáo truyền lại ngai vàng cho một Hồng y lớn tuổi và không con nối hậu. Khi ông ta qua đời, vua Tây Ban Nha Phillip Đệ nhị được truyền ngôi, người mà nhìn thấy được cơ hội để thống nhất 2 vương quốc và rồi xâm chiếm, đánh bại đối thủ là António, tu viện trưởng xứ Crato, đứa con hoang của vị hoàng tử trước. Trong khi vua Phillip được chào đón bởi giới quý tộc và thương gia vì thấy trước cơ hộ từ việc thống nhất, phần lớn người dân không đồng ý, và một thời kỳ gọi là “Sự chiếm đóng của Tây Ban Nha” bắt đầu.
17. Nổi dậy và độc lập (1640)
Tác phẩm của Họa sĩ Peter Paul Rubens – Nguồn: pl.pinterest.com, Domínio público, Ligação
Khi Tây Ban Nha bắt đầu suy sụp, Bồ Đào Nha cũng lâm vào tình cảnh tương tự. Điều này cộng với thuê má cao và lệ thuộc vào Tây Ban Nha góp phần nuôi dưỡng các cuộc nội dậy và một ý tưởng về một nền độc lập mới tại Bồ Đào Nha. Vào năm 1640, sau khi giới quý tộc Bồ Đào Nha được ra lệnh dập tắt một cuộc nổi dậy của xứ Catalunya ở bên kia bán đảo Iberia, một số người tổ chức một cuộc khởi nghĩa, ám sát một vị bổ trưởng, ngăn chặn quân của xứ Castilla phản công, và đưa João, Công tước xứ Braganza lên ngai vàng. Xuất thân từ hoàng tộc, João dành 2 tuần để xem xét các lựa chọn đưa ra, và rồi chấp nhận, trở thành vua João Đệ tứ. Chiến tranh với Tây Ban Nha nổ ra sau đó, nhưng đất nước lớn hơn này bị vắt kiệt sức lực bởi xung đột và giao tranh khác tại châu Âu. Bồ Đào Nha có được hoà bình và được công nhận nền độc lập từ Tây Ban Nha vào năm 1668.
18. Cuộc cách mạng năm 1668
Vua Afonso Đệ lục. Hoạ sĩ: Giuseppe Duprà. Nguồn: Wikimedia Commons
Vua Afonso Đệ lục là một vị vua trẻ, khuyết tật và thiểu năng trí tuệ. Khi ông kết hôn, có đồn đoán rằng ông bị liệt dương. Giới quý tộc lo sợ cho tương lai của người kế vị và sự tái chiếm của Tây Ban Nha, quyết định về phe Pedro, em của nhà vua. Một kế hoạch được vẽ ra: vợ của Afonso thuyết phục ông sa thải một vị bộ trưởng không được lòng dân, và rồi bà chạy trốn vào một tu viện và huỷ bỏ hôn nhân, trong khi đó vua Afonso bị thuyết phục nhường ngai lại cho em trai ông, Pedro. Vợ trước của vua Afonso sau đó kết hôn với Pedro. Bản thân nhà vua được nhận một số tiền trợ cấp lớn và bị trục xuất, một thời gian sau được trở lại Bồ Đào Nha và sống trong cô lập.
19. Bồ Đào Nha tham gia vào Chiến tranh Kế vị của Tây Ban Nha (1704 – 1713)
Trận chiến Malaga (~1704), từ 'Old Naval Prints’
Ban đầu, Bồ Đào Nha theo phe Pháp trong Cuộc chiến Kế vị của Tây Ban Nha, nhưng không lâu sau đó đã có quan hệ đồng minh với Anh quốc, Áo và các quốc gia vùng thấp khác chống lại Pháp và đồng minh. Trận chiến diễn ra dọc biên giới Tây Ban Nha – Bồ Đào Nha được 8 năm, và có một thời điểm mà lực lượng Anh – Bồ tiến vào Madrid. Hoà bình giúp Bồ Đào Nha mở rộng bờ cõi tại phần thuộc địa Brazil.
20. Chính quyền của Pombal (1750 – 1777)
Tượng đài Marques de Pombal tại quảng trường Pombal, thủ đô Lisbon, Bồ Đào Nha.
Vào năm 1750, một nhà ngoại giao tên là Marquês de Pombal tham gia chính phủ. Vị vua mới, José, cho ông được tự do cai quản. Pombal thực hiện nhiều cuộc cải cách lớn và thay đổi nền kinh tế, giáo dục và tôn giáo, bao gồm việc trục xuất những tu sĩ dòng Tên. Ông cũng cai trị một cách độc tài, bỏ tù bất cứ ai thách thức ông, hoặc chính quyền hoàng gia đã chống lưng ông. Khi José bị ốm, ông đã sắp xếp cho một vị quan nhiếp chính dưới trướng ông, Dona Maria, thay đổi tình hình. Bà nắm quyền lực vào năm 1777, khởi đầu một thời kỳ gọi là Viradeira. Tù nhân được thả, Pombal bị lật đổ và trục xuất và chính phủ Bồ Đào Nha dần dần thay đổi.
21. Chiến tranh Napoleon và Cách mạng ở Bồ Đào Nha (1793 – 1813)
Một đội quân Anh – Bồ dưới sự chỉ huy của Arthur Wellesley, Công tước thứ nhất của Wellington đánh bại quân Pháp của thiếu tướng Jean-Andoche Junot trong trận chiến Vimeiro trong thời kỳ chiến tranh Bán đảo vào 21 – 8 – 1808 tại thành phố Vimeiro, Bồ Đào Nha.
Bồ Đào Nha tham gia những cuộc chiến tranh Cách mạng Pháp vào năm 1793, ký các hiệp ước với Anh và Tây Ban Nha với mục tiêu phục hồi nền quân chủ ở Pháp. Vào năm 1795, Tây Ban Nha đồng ý không chiến tranh với Pháp, khiến cho Bồ Đào Nha mắc kẹt giữa các nước láng giếng và những hiệp ước đã ký với Anh; Bồ Đào Nha cố gắng theo đuổi sự trung lập không thù địch. Đã từng có những nỗ lực ép Bồ Đào Nha tham chiến bởi Tây Ban Nha và Pháp trước khi họ xâm lược vào năm 1807. Chính phủ chạy trốn sang Brazil, và chiến tranh giữa liên minh Anh – Bồ và Pháp diễn ra, gọi là Chiến tranh Bán đảo. Bồ Đào Nha thắng lợi và đẩy lùi quân Pháp vào năm 1813.
22. Cách mạng 1820 – 1823
Hội đồng Cortes 1822.
Một tổ chức ngầm thành lập năm 1818 với tên gọi “Sinédrio” thu hút sự ủng hộ từ một số người trong giới quân sự Bồ Đào Nha. Vào năm 1820, họ thực hiện một cuộc đảo chính chống lại chính quyền và thành lập một “Hội đồng Hiến pháp” để tạo một hiến pháp hiện đại hơn, với việc nhà vua đứng dưới Quốc hội. Vào năm 1821, Hội đồng Cortes triệu tập nhà vua từ Brazil về, và ông đã đến, thế nhưng con trai ông không được kêu gọi, dẫn đến việc con trai vua trở thành hoàng đế của một nước Brazil độc lập.
23. Cuộc chiến Huynh đệ / Chiến tranh Miguelite (1828 – 1834)
Quốc vương Bồ Đào Nha Pedro Đệ tứ, hay còn gọi là Pedro Đệ nhất ở Brazil.
Vào năm 1826, quốc vương Bồ Đào Nha băng hà và người kế vị, Hoàng đế Brazil, từ chối ngai vàng để không phải coi thường Brazil. Thay vào đó, ông đệ trình một bản Hiến chương??? và thoái vị để nhường cho người con gái còn nhỏ tuổi của ông, Dona Maria. Bà sẽ cưới người chú, Hoàng từ Miguel, người có vai trò là quan nhiếp chính. Bản hiến chương??? bị phản đối bởi một số cá nhân theo chủ nghĩa tự do, và khi Miguel trở về sau cuộc đày ải, ông tự tuyên bố mình là quốc vương tuyệt đối. Nội chiến giữa những người ủng hộ Miguel và Dona Maria diễn ra, với việc vua Pedro thoái vị hoàng đế để có thể đến bên con gái mình và thành quan nhiếp chính; phe của họ chiến thắng vào năm 1834, và Miguel bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha.
24. Chủ nghĩa Cabral và Nội chiến (1844 – 1847)
Tranh khắc mô tả hành một cuộc quyết công khai một dân thường bởi quân Chính phủ trong nội chiến Bồ Đào Nha năm 1846 – 1847.
Vào năm 1836 – 1838, cuộc Cách mạng tháng Chín dẫn đến sự ra đời một hiến pháp mới, tồn tại giữa hiến pháp năm 1822 và Hiến chương năm 1828. Vào năm 1844, dân chúng gây áp lực khôi phục lại phần Hiến chương quân chủ, và Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Cabral, phải công bố việc khôi phục. Vài năm sau, những thay đổi của Cabral hiện hữu khắp nơi – đổi mới về tài chính, luật pháp, hành chính và giáo dục - một kỷ nguyên được gọi là thời đại Cabral. Tuy nhiên, vị bộ trưởng có kẻ thù theo sau và ông bị buộc phải chịu đày ải. Vị bộ trưởng tiếp theo hứng chịu một cuộc đảo chính, một cuộc nội chiến 10 tháng diễn ra giữa những người ủng hộ luật quản lý của năm 1822 và 1828. Anh và Pháp can thiệp, và hoà bình được lập lại trong Hiệp ước Gramido vào năm 1847.
25. Đệ nhất Cộng hoà ra đời (1910)
Thủ tướng José Relvas tuyên bố thành lập nền cộng hoà khi đứng trên ban công của Toà thị chính trong cuộc Cách mạng Dân chủ.
Vào cuối thế kỷ 19, xuất hiện một phong trào dân chủ đang lớn mạnh tại Bồ Đào Nha. Những nổ lực của nhà vua để đối phó đã thất bại, và vào 2/2/1908, nhà vua và người kế vị bị ám sát. Quốc vương Manuel Đệ nhị lên ngôi, nhưng một chính phủ theo sau đó không thể ổn định tình hình. Vào ngày 3/10/1910, phe dân chủ khởi nghĩa – một phần của cuộc nổi dậy có vũ trang của người dân. Khi hải quân tham gia cuộc nổi dậy, vua Manuel thoái vị và chạy sang Anh quốc. Một hiến pháp dân chủ được tán thành vào năm 1911.
26. Nền độc tài quân sự (1926 – 1933)
António Óscar Fragoso Carmona trở thành Tổng thống Bồ Đào Nha năm 1926. Nguồn: Wikimedia Commons
Sau khi bất ổn nội bội và các vấn đề quốc tế gây ra một cuộc đảo chính vào năm 1917, việc người đứng đầu chính phủ bị ám sát và nền dân chủ bất ổn, xuất hiện một tư tưởng khá phổ biến ở châu Âu rằng chỉ một nhà độc tài có thể ổn định mọi thứ. Cuộc đảo chính diễn ra vào năm 1926 và vào năm 1933 tướng lĩnh đã thoái lui khỏi chính phủ.
27. Nhà nước Mới của Salazar (1933 – 1974)
Nhà độc tài Bồ Đào Nha Antonio De Oliveira Salazar (1889 - 1970) duyệt binh lính sắp sửa đi đến các thuộc địa châu Phi của nước Cộng hoà Bồ Đào Nha, khoảng năm 1950.
Vào năm 1928, những vị tướng cầm quyền mời một giáo sư ngành Kinh tế Chính trị tên António Salazar tham gia chính phủ và giải quyết khủng hoảng tài chính. Ông được thăng chức Thủ tướng vào năm 1933, vào thời điểm đó ông ban hành một hiến pháp mới tên “Nhà nước Mới”. Chế độ mới - nền Đệ nhị cộng hoà, thể hiện sự độc tài, phản quốc hội, chống cộng sản, và thể hiện chủ nghĩa dân tộc. Thủ tướng Salazar cai trị từ 1933 – 1968 cho đến khi về hưu do bệnh tật, tiếp sau đó là thủ tướng Caetano từ năm 68 – 74. Thời kỳ này tồn tại vô số sự kiểm duyệt, đàn áp, và chiến tranh thuộc địa, nhưng với việc công nghiệp và công tác xã hội tang trưởng, vẫn có người ủng hộ. Bồ Đào Nha trở nên trung lập trong Đệ nhị Thế chiến.
28. Đệ tam Cộng hoà ra đời (1976 – 1978)
Hai quân nhân Bồ Đào Nha đang đọc báo để biết thêm thông tin mới nhất về cuộc đảo chính. Nguồn Getty Images/Getty Images
Sự bất ổn ngày càng gia tăng trong giới quân đội (và quần chúng) tại các thuộc địa dẫn đến sự thành lập một tổ chức quân sự bất mãn gọi là “phong trào Lực lượng Vũ trang” (AFM), gây ra một cuộc đảo chính bất bạo động vào 25/4/1974. Vị tổng thống, Tướng Spínola, nhìn thấy một cuộc tranh giành quyền lực giữa tổ chức AFM, cộng sản và những nhóm cánh tả khiến cho ông phải từ chức. Những cuộc bầu cử diễn ra, ganh đua giữa những đảng phái chính trị mới, và rồi Hiến pháp Đệ tam Cộng hoà được ban hành với mục tiêu cân bằng quyền lực giữa tổng thống và quốc hội. Dân chủ được khôi phục, và các thuộc địa châu Phi có được độc lập.