TIẾNG BỒ ĐÀO NHA – TÓM TẮT LỊCH SỬ
Bồ Đào Nha phát triển từ Vulgar Latin và những người chinh phục La Mã, những người lính và thực dân đã đến bán đảo Iberia bởi trong thế kỷ thứ 3 Trước Công nguyên. Mặc dù phần lớn từ vựng tiếng Bồ Đào Nha đến từ tiếng Latin, một số từ cũng đã được mượn từ tiếng Ả Rập, tiếng Pháp, tiếng Ý, và cũng từ một số các ngôn ngữ bản địa Nam Mỹ và châu Phi. Điều thú vị là, ngôn ngữ hiện đại Bồ Đào Nha có từ 400 đến 1000 từ có nguồn gốc tiếng Ả Rập, đặc biệt liên quan đến thực phẩm, nông nghiệp và hàng thủ công. Cuộc xâm lăng của Moorish trên bán đảo Iberia vào khoảng năm 711 đưa đến việc tiếng Ả Rập được thông qua như là ngôn ngữ hành chính của các vùng bị chinh phục. Ảnh hưởng của tiếng Ả Rập cũng có thể thấy ở các địa danh, đặc biệt là ở các tỉnh miền nam Bồ Đào Nha, như Algarve, Alfama và Fátima.
Bồ Đào Nha là thành viên của nhóm Ngôn ngữ La Mã của tiểu đơn vị ngôn ngữ Ý thuộc nhóm ngôn ngữ Ấn-Âu, và được sử dụng trên toàn thế giới: Châu Âu, Châu Phi, Châu Á và tất nhiên là Nam Mỹ. Từ "lãng mạn" bao hàm tình yêu và sự tán tỉnh, nhưng khi viết hoa chữ R, trong "Ngôn ngữ La Mã", nó đề cập đến một tập các ngôn ngữ dựa trên tiếng La-tin, ngôn ngữ của người La Mã cổ đại. Ngôn ngữ Latin giản dị của người La mã thông thường được gọi là "Vulgar Latin" vì "Vulgar" là một hình thức tính từ của tiếng La-tin cho "đám đông". Đây là ngôn ngữ mà những người lính đã sử dụng để tương tác với người bản xứ và ngôn ngữ của quân xâm lược sau này, đặc biệt là cuộc xâm lược của những người Moorish và của người Đức, để tạo ra Ngôn ngữ La Mã thông qua khu vực từng là Đế Chế La Mã.
TIẾNG BỒ ĐÀO NHA NGÀY NAY
Một cộng đồng lớn gồm những người nhập cư Bồ Đào Nha và Brazil ở Hoa Kỳ, và ngôn ngữ Bồ Đào Nha đã trở nên phổ biến ở nhiều khu vực của Hoa Kỳ. Tiếng Bồ ở lục địa châu Phi được dùng ở một số tiểu bang châu Phi và là ngôn ngữ chính thức của 5 nước này, cụ thể là Angola, Mozambique, Guinea-Bissau, Cape Verde, São Tomé và Príncipe. Angola và Mozambique, cả hai thuộc địa Bồ Đào Nha, thường được so sánh về tiềm năng phát triển kinh tế của họ. Cả hai nước đang được xây dựng lại sau nhiều năm nội chiến tàn phá, trong đó cơ sở hạ tầng của cả hai đã gần như hoàn toàn bị phá hủy.
Ở Châu Phi, tiếng Bồ Đào Nha chuẩn, dựa trên tiếng Bồ ở Bồ Đào Nha, là cơ sở cho các tiêu chuẩn viết và nói, mặc dù có các biến thể địa phương của ngôn ngữ. Một số khía cạnh về âm vị học của phương ngữ châu Phi ở Angola và São Tomé và Príncipe có sự tương đồng với các phương ngữ Brazil, mặc dù các thế hệ trẻ và các tầng lớp trên có xu hướng sử dụng phát âm theo chuẩn của châu Âu.
Một số cộng đồng Kitô giáo nói tiếng Bồ Đào Nha ở Ấn Độ, Sri Lanka, Mã Lai và Indonesia vẫn lưu giữ ngôn ngữ của họ, ngay cả sau khi họ bị cô lập khỏi Bồ Đào Nha. Ngôn ngữ đã đem đến thay đổi đáng kể cho cộng đồng này và đã cải tiến qua nhiều thế kỷ thành nhiều phong cách khác nhau. Bồ Đào Nha là nước cuối cùng của các nước Tây Âu từ bỏ vùng thuộc địa và lãnh thổ ở nước ngoài, giao Macao cho chính quyền Trung Quốc như năm 1999. Lịch sử thuộc địa của nó đã trở thành nền tảng cho bản sắc dân tộc của nó.
Tiếng Bồ theo người Brazin và ở châu Âu có sự khác biệt về từ vựng, cách phát âm và cú pháp, mặc dù sự khác biệt đã rút ngắn giữa tiếng Braxin và tiếng Bồ Đào Nha trong sư phạm. Có nhiều điểm tương đồng trong cách phát âm, cú pháp và đơn giản hóa sử dụng ngữ pháp giữa Bồ Đào Nha gốc Braxin và Tiếng Bồ Đào Nha gốc Angola, nhưng hầu như không có sự khác biệt giữa tiếng Bồ Đào Nha gốc Châu Âu và Bồ Đào Nha gốc Angola. Sự khác biệt lớn nhất là tiếng Bồ Đào Nha ở São Tomean bản địa vì sự pha trộn với tiếng Bồ Đào Nha vùng địa phương Creoles, mặc dù vậy, họ thậm chí không gặp khó khăn khi nói chuyện với một người đến từ một quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha khác.
TIẾNG LÓNG Ở BỒ ĐÀO NHA
Tiếng lóng là một loại ngôn ngữ bao gồm các từ và cụm từ được dùng không chính thức, và phổ biến hơn trong lời nói hơn bằng văn bản. Chúng thường bị giới hạn trong một ngữ cảnh cụ thể hoặc một nhóm người. Tiếng lóng và thành ngữ không thể dịch theo nghĩa đen và hoàn toàn không thể thiếu nếu bạn muốn nói chuyện với người bản địa. Nhiều cụm tiếng long và thành ngữ thông dụng của Braxin có nguồn gốc từ thực phẩm, ví dụ:
- Một vấn đề khó giải quyết là một "abacaxi" có nghĩa là "dứa".
- Một người đàn ông đẹp trai được gọi là "pão" có nghĩa là "bánh mì".
- Một phụ nữ hấp dẫn được gọi là "uva" có nghĩa là "nho".
NGÔN NGỮ KÍ HIỆU BỒ ĐÀO NHA
Ngôn ngữ ký hiệu không phải là phổ quát. Bất cứ nơi nào có cộng đồng người khiếm thính, ngôn ngữ kí hiệu phát triển, và biến hóa qua các khu vực. Theo Đại học Gallaudet, ngôn ngữ ký hiệu Bồ Đào Nha được sử dụng bởi khoảng 8000 người trên thế giới. Nó có các phương ngữ khác nhau trong hai trường học khiếm thính ở Lisbon và Porto, và nó rất giống với ngôn ngữ ký hiệu Thụy Điển.
XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA BỒ ĐÀO NHA
Gia đình là nền tảng của cấu trúc xã hội trong cộng đồng người Bồ Đào Nha và tạo cơ sở cho sự ổn định. Đại gia đình thường khá thân thiết và cá nhân có được mạng lưới quan hệ khắng khít và sự trợ giúp từ gia đình. Sự trung thành với gia đình đến trước các mối quan hệ xã hội khác, thậm chí cả kinh doanh.
Nhiều biểu tượng văn hoá của bản sắc quốc gia tập trung vào Age of Discovery. Cờ quốc gia bao gồm một thiết bị thiên văn cổ xưa (cầu) được sử dụng cho hàng hải và đại diện cho vai trò của Bồ Đào Nha trong công cuộc khám phá địa cầu. Bồ Đào Nha, một quốc gia có bề dày lịch sử, có nhiều cấu trúc kiến trúc cổ đại, cũng như các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu, đồ gỗ và các bộ sưu tập văn học phản ánh và ghi chép lại các sự kiện đã định hình đất nước và con người của nó.
Bồ Đào Nha là quê hương của 15 Di sản Thế giới của UNESCO, đứng thứ 8 ở châu Âu và đứng thứ 17 trên thế giới trong danh mục này. Nó có một số lượng lớn các mốc văn hoá khác nhau, từ bảo tàng đến các tòa nhà nhà thờ cổ kính và lâu đài thời Trung cổ. Kiến trúc Bồ Đào Nha nổi tiếng với việc sử dụng "azulejos", gạch tráng men bao phủ các mặt tiền và nội thất của nhà thờ, tòa nhà chính phủ, và nhà riêng.
Ẩn thực Bồ Đào Nha phong phú theo từng vùng. Phía Bắc được biết đến với tên gọi "caldo verde", một món canh cải xoăn và khoai tây chiên với hương vị "chouriço", là một loại xúc xích cay. "Bacalhau" là cá tuyết, là món ăn quốc gia kể từ thế kỉ 15, khi người Bồ Đào Nha bắt đầu câu cá trên các đường bờ biển khác nhau. Quế là một hương vị phổ biến cho các món tráng miệng, chẳng hạn như bánh pudding truyền thống được gọi là "arroz doce".
Người Bồ Đào Nha có rất nhiều hoạt động văn hoá. Họ có một truyền thống văn hoá phong phú, đa dạng từ các vùng, và nhiều thành phố, thị trấn đều có một viện bảo tàng và các dãy dài các đài tưởng niệm và tòa nhà cổ. Có rất nhiều nơi trên khắp đất nước để trải nghiệm về nghệ thuật và hàng thủ công nơi đây. Ở các thị trấn nhỏ và làng mạc, hoạt động văn hoá xoay quanh văn hoá dân gian địa phương, múa dân vũ và ca hát. Các vũ công mặc trang phục truyền thống của khu vực và biểu diễn các điệu múa có nguồn gốc lịch sử và vùng miền.
Lễ hội địa phương rất phổ biến trong mùa hè. "Fado" là một trong những truyền thống quan trọng nhất. Fado là một loại bài hát phổ biến ở Bồ Đào Nha, thường có chủ đề u sầu và được chơi bằng đàn mandolin và guitar. Âm nhạc Fado là trái tim và linh hồn Bồ Đào Nha và được cho là thể loại nhạc dân gian lâu đời nhất trên thế giới. Đấu bò cũng là một nghệ thuật biểu diễn quan trọng.
Các thành phố ở Bồ Đào Nha đã được trao giải và được trang hoàng như một Trung tâm Văn hoá của châu Âu, cụ thể là Lisbon năm 1994, Porto năm 2001 và Guimarães vào năm 2012. Bồ Đào Nha thường nằm trong top 15 hoặc 20 các quốc gia du khách phải ghé thăm. Bồ Đào Nha cũng là một trong những nơi rẻ nhất trong số các điểm đến nghỉ mát khác ở châu Âu.