Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 12/7/1995, trao đổi Đại sứ đầu tiên vào tháng 7/1997, mở Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh và Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Thành phố San Francisco vào tháng 11/1997.
Quan hệ chính trị:
Hai bên đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao.
Về phía Việt Nam thăm Hoa Kỳ:
Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm (1998, 2000). Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng (2001). Phó Thủ tướng Vũ Khoan (2003). Nổi bật nhất là chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Thủ tướng Phan Văn Khải vào tháng 6/2005. Ngoài ra còn nhiều đoàn cấp Bộ trưởng.Phía Hoa Kỳ cũng cử nhiều đoàn cấp cao thăm Việt Nam:
Cựu Tổng thống George H.W. Bush (1995).Ngoại trưởng Warren Christopher (1995). Cố vấn an ninh quốc gia A. Lake (1996).Ngoại trưởng Madeleine Albright (1997).Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Cohen (2000). Tổng thống Bill Clinton (tháng 11/2000).Ngoại trưởng Colin Powell (2001). Bộ trưởng Quốc phòng Rumsfeld (2006). Chủ tịch Hạ viện Dennis Hastert (2006). Tháng 11/2006, Tổng thống Mỹ George W. Bush thăm chính thức Việt Nam và tham dự Hội nghị cấp cao APEC.Các chuyến thăm này đã đưa quan hệ giữa hai nước lên tầm cao mới, mở ra khuôn khổ quan hệ đối tác xây dựng, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt, ổn định lâu dài. Ngoài ra, lãnh đạo cấp cao hai nước cũng đã gặp gỡ tại các diễn đàn đa phương của khu vực và thế giới.
Quan hệ kinh tế - thương mại:
Các hiệp định đã ký kết:
Hiệp định về thiết lập quan hệ quyền tác giả (ngày 27/6/1997). Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (ký ngày 13/7/2000, có hiệu lực ngày 10/12/2001). Hiệp định Hợp tác về khoa học và công nghệ (có hiệu lực từ ngày 26/3/2001).Hiệp định Dệt may (có hiệu lực từ 1/5/2003). Hiệp định Hàng không (có hiệu lực từ 14/1/2004). Hiệp định khung hợp tác về kinh tế và kỹ thuật (2005). Bản Ghi nhớ hợp tác về Nông nghiệp (ký tháng 6/2005).Đáng chú ý, ngày 31/5/2006 hai nước đã ký Thỏa thuận chính thức kết thúc đàm phán song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. Quốc hội Hoa Kỳ đang xem xét dành quy chế Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam.
Kết quả hợp tác:
Kể từ khi Hiệp định Thương mại có hiệu lực đến nay, quan hệ buôn bán giữa hai nước tăng nhanh: kim ngạch buôn bán 2 chiều năm 2005 đạt 7,8 tỉ USD, tăng gấp hơn 5 lần năm 2001 (1,5 tỉ USD). Đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam tính đến tháng 5/2006 đạt khoảng 2 tỷ USD (nếu tính cả qua nước thứ 3 đạt khoảng 4 tỷ USD). Hiện có hơn 1.000 doanh nghiệp Hoa Kỳ đang hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên trong quá trình mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại đã nảy sinh một số tranh chấp do chính sách bảo hộ của Hoa Kỳ như vấn đề cá basa, tôm, hàng dệt may....
Hợp tác trong lĩnh vực Khoa học - Công nghệ, Văn hóa, Giáo dục - Đào tạo, Y tế và Lao động:
Hai nước đã ký kết nhiều văn bản:
Bản Ghi nhớ (MOU) cấp Bộ như Tuyên bố chung về hợp tác y tế giữa hai Bộ Y tế (12/1997). Thỏa thuận hợp tác về thể dục thể thao (3/1999). Bản ghi nhớ về hợp tác lao động Việt Nam - Hoa Kỳ (11/2000), Bản Ghi nhớ về hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực Khí tượng Thủy văn (1/2001),Biên bản Ghi nhớ giúp đào tạo nhân lực cho ngành Thủy sản Việt Nam (11/3/2003). Hiệp định hợp tác y tế và khoa học y học Việt Nam - Hoa Kỳ (7/2006),... Năm 2003, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký kết Nguyên tắc hợp tác trong việc thực hiện Đề án Quỹ giáo dục của Hoa Kỳ dành cho Việt Nam (VEF). VEF đã bắt đầu cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam sang Hoa Kỳ đào tạo.
Ngày 23/6/2004, Tổng thống Hoa Kỳ George Bush tuyên bố đưa Việt Nam vào danh sách 15 nước hưởng viện trợ trong Kế hoạch Viện trợ khẩn cấp về phòng chống HIV/AIDS. Hoa Kỳ cũng hợp tác tích cực và tài trợ cho Việt Nam trong lĩnh vực phòng chống đại dịch cúm gia cầm.
Hợp tác về các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại:
Với truyền thống và chính sách nhân đạo, Việt Nam đã và đang hợp tác tốt với Hoa Kỳ trong việc giải quyết vấn đề binh lính Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh. Đến nay, hai nước đã tiến hành 86 đợt tìm kiếm hỗn hợp. Phía Việt Nam đã trao cho Hoa Kỳ hơn 840 bộ hài cốt. Phía Hoa Kỳ cũng đang từng bước hợp tác với Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề hậu quả chiến tranh ở Việt Nam như cung cấp các thông tin liên quan tới việc tìm kiếm người Việt Nam bị mất tích trong chiến tranh. Hai bên hợp tác tổ chức một số hội nghị về nghiên cứu hậu quả chất độc da cam.
Từ năm 2000, cơ quan viện trợ USAID đã tài trợ cho nhiều tổ chức phi chính phủ - NGO (Peace Tree, VNAH, HealthEd...) thực hiện các chương trình rà phá bom mìn, trồng cây xanh, trợ giúp nạn nhân... Trung tâm xử lý bom mìn của Bộ Quốc phòng (BOMICO) và Quỹ cựu binh Mỹ ở Việt Nam (VVAF) đã hoàn tất giai đoạn 1 của Dự án “Điều tra, khảo sát và đánh giá tác động của bom mìn vật nổ còn sót lại sau chiến tranh tại Việt Nam".
Quan hệ an ninh - quân sự:
Trao đổi đoàn:
Hai bên đã cử Tùy viên quân sự (Hoa Kỳ cử năm 1995 và Việt Nam cử năm 1997); tiến hành trao đổi nhiều đoàn, kể cả các đoàn cấp Thứ trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng. Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ W. Cohen thăm Việt Nam tháng 3/2000. Đáp lại, Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà đã thăm Hoa Kỳ tháng 11/2003. Tháng 6/2006, Bộ trưởng Quốc phòng D. Rumsfeld thăm Việt Nam. Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ đã thăm Việt Nam nhiều lần. Từ năm 2003, hàng năm tàu hải quân Hoa Kỳ thăm hữu nghị cảng Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác song phương.
Hợp tác chống khủng bố:
Việt Nam đã và đang tiếp tục hợp tác với Hoa Kỳ trong một số lĩnh vực cụ thể để chống khủng bố. Đồng thời, Việt Nam cũng yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ hợp tác ngăn chặn và nghiêm trị những tổ chức và cá nhân có hành động khủng bố chống Việt Nam.